Thông mạch dưỡng não – Bổ huyết, thông kinh, tăng tuần hoàn máu não

44 views

  1. Thông mạch dưỡng não – Bổ huyết, thông kinh, tăng tuần hoàn máu não

Thông mạch dưỡng não Tuệ Linh là sản phẩm giúp bồi bổ khí huyết, tăng cường tuần hoàn máu não, giúp giảm nhanh chóng các triệu chứng do khí huyết ứ trệ gây: đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, mất ngủ, đau mỏi, tê bì chân tay, vai gáy… Sản phẩm cho hiệu quả nhanh, mạnh, rõ rệt chỉ sau 1 liệu trình và đặc biệt an toàn từ bài thuốc cổ Bổ dương ngũ hoàn thang nức tiếng kết hợp với rễ đinh lăng sạch theo tiêu chuẩn Quốc tế GACP.

2. Thành phần

Thông mạch dưỡng não được kết hợp từ bài thuốc “Bổ dương ngũ hoàn thang” gồm: Hoàng kỳ, Đinh lăng, Đương quy, Bạch thược, Địa long, Xuyên khung, Hồng hoa + rễ Đinh lăng chuẩn hóa theo tiêu chuẩn Quốc tế GACP.

3. Kết quả truyền thông nghiên cứu lâm sàng bài thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang tại Viện Y học cổ truyền Quân đội 

Nghiên cứu tác dụng điều trị nhồi máu não sau giai đoạn cấp của bài thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang tại Viện Y học cổ truyền Quân đội cho kết quả:

  • Số bệnh nhân không rối loạn ý thức tăng lên đến 54,9% so với trước đó
  • 58,1% bệnh nhân sau điều
  • trị cải thiện được 2 độ mức độ liệt (theo thang điểm Henry)
  • Khả năng sinh hoạt độc lập, không phụ thuộc vào người khác & làm chủ được hành vi, cử động toàn thân của bệnh nhân được cải thiện rõ rệt (thể hiện qua điểm Barthel & thang điểm Orgogozo, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,001) so với trước điều trị.)
  • Sau 30 ngày điều trị, tỷ lệ bệnh nhân nhồi máu não được đánh giá khỏi là 16,1%, đỡ nhiều tổng thể các chức năng lên tới 67,7%

CHI TIẾT NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠI VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN QUÂN ĐỘI

http://hoidotquyvietnam.com/tin-tuc/danh-gia-tac-dung-dieu-tri-dot-quy-nhoi-mau-nao–sau-giai–doan-cap-cua-bai-thuoc–bo-duong-hoan-ngu-thang-87.html

  1. Thành phần: Hoàng kỳ, Đương quy vĩ, Xích thược, Địa long, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa.
  2. Nguồn gốc: Phương thuốc này có xuất xứ từ sách Y Lâm Cải Thác của Vương Thanh Nhiệm (1768-1831) – một lương y đời nhà Thanh, Trung Quốc.
  3. Tác dụng: Bổ khí hoạt huyết, tăng cường tuần hoàn máu, làm tan huyết khối, ức chế sự hình thành cục máu đông, giãn mạch, chống co thắt cơ trơn, hạ thấp độ nhớt của máu, hạ huyết áp (HA), hạ lipid, cường tim, kháng viêm, tăng cường chức năng miễn dịch, xúc tiến hồi phục tổn thương thần kinh…
  4. Dùng cho các trường hợp thiểu năng tuần hoàn máu, nhồi máu não, bán thân bất toại, mồm miệng và mắt méo lệch, không nói được, miệng sùi bọt mép, bí đại tiểu tiện.
  5. Từ năm 1975, Viện Y học cổ truyền Quân đội (YHCTQĐ) đã áp dụng bài thuốc để điều trị phục hồi chức năng cho các BN sau đột quỵ do tắc mạch cấp có hiệu quả.
  6. Hiện nay, bài thuốc Bổ dương hoàn ngũ, ngoài việc dùng phòng trị các bệnh lý mạch máu não (thiểu năng tuần hoàn não, nghẽn mạch và xuất huyết não gây liệt nửa người, đau đầu do rối loạn vận mạch, di chứng trúng phong, hội chứng tiền đình…), còn được vận dụng chữa nhiều loại bệnh khác cũng có kết quả như: viêm tủy sống cấp, bệnh nhược cơ tiến triển, tiểu đường, nhồi máu cơ tim cấp, viêm thận mạn, bệnh raynaud (tê cóng và đổi sắc ở ngón tay, ngón chân, phát triển sau khi bị lạnh làm co nhiều động mạch nhỏ và ứ máu tĩnh mạch)…

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 

Tóm tắt: 

Nghiên cứu tác dụng điều trị của bài thuốc “bổ dương hoàn ngũ thang”  trên các bệnh nhân (BN) nhồi máu não (NMN) sau giai đoạn cấp tại viện Y Học Cổ Truyền Quân đội (YHCTQĐ) từ 2/2008 đến 10/2009.

Kết luận: Bổ dương ngũ hoàn thang có tác dụng điều trị rõ rệt:

BN hồi phục ý thức hoàn toàn sau điều trị tăng 54,9%

Rối loạn ý thức vừa và nhẹ giảm (từ 9,7% và 64,5% trước điều trị xuống 3,2% và 16,1% ), (P < 0,05); mức độ liệt (theo thang điểm Henry) được cải thiện 2 độ (58,1%), cải thiện 1 độ (32,3%) và 3 độ (9,7% ); khả năng sinh hoạt độc lập của BN (theo thang điểm Barthel) và tình trạng lâm sàng (theo thang điểm Orgogozo) sau điều trị tăng 33,4 ± 9,5 và 30,8 ± 11,3 điểm, (P < 0,001). Sau 30 ngày điều trị bằng Bổ dương hoàn ngũ thang, có 16,1% BN khỏi bệnh , 67,7% đỡ nhiều và 16,1% đỡ ít; tương đương với điều trị bằng thuoocs Cebrex .

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

NMN chiếm tỷ lệ 68 – 70% số đột quỵ não (ĐQN), thường gặp ở người 60 – 70 tuổi, nam lớn hơn nữ [62], [64]; tỷ lệ tử vong dao động từ 28 – 39%.

Từ những năm trước, nhiều người đã chú ý dùng các bài thuốc cổ truyền dân tộc để điều trị đột quỵ não (ĐQN) sau giai đoạn cấp nhằm góp phần phục hồi nhanh chứng bệnh lý này. Từ năm 1975, Viện Y học cổ truyền Quân đội (YHCTQĐ) đã áp dụng bài thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang (BDHNT) được chọn từ sách Y lâm cải thác của Vương Thanh Nhiệm, có tác dụng bổ khí hoạt huyết, khư ứ thông lạc để điều trị phục hồi chức năng cho các BN sau NMN cấp có hiệu quả. Các nghiên cứu cho thấy bài thuốc này có tác dụng giãn mạch, chống co thắt cơ trơn, hạ thấp độ nhớt của máu, hạ huyết áp (HA), hạ lipid, cường tim, kháng viêm, tăng cường chức năng miễn dịch, xúc tiến hồi phục tổn thương thần kinh… Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá tác dụng điều trị NMN sau giai đoạn cấp của bài thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang.

II . ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

2.1. Vật liệu

– Bài thuốc BDHNT gồm các vị: Sinh Hoàng kỳ 120g, Quy vỹ 6g, Xích thược 6g, Địa long 3g, Hồng hoa 3g, Xuyên khung 3g và Đào nhân 3g được bào chế và sắc tại

*Viện Y học cổ truyền Quân đội, khoa dược Viện YHCTQĐ. Các loại dược liệu  của bài thuốc được chiết, sau đó cô đặc và đóng túi 120ml, bảo quản trong tủ lạnh ở 40C và được ngâm ấm trước khi cho BN uống .

– Thuốc Cebrex viên 40 mg do hãng Dr. Willmar Schwabe GmbH & Co (Đức) cung cấp.

2.2. Đối tượng nghiên cứu

– 62 BN không phân biệt giới tính, được chẩn đoán xác định NMN sau giai đoạn cấp (sau 1 đến 3 tuần, tình trạng bệnh đã tương đối ổn định, chức năng sống không còn bị đe dọa), điều trị nội trú tại Viện YHCTQĐ từ tháng 2/2008 đến 10/2009, tình nguyện tham gia vào nghiên cứu.

– Loại trừ các BN không thuộc thể khí hư huyết ứ; BN NMN có điểm Glasgow < 6; có bệnh tim mạch (suy tim mất bù, nhồi máu cơ tim, tăng HA kháng trị); suy gan, thận, hô hấp; phụ nữ có thai; BN không tuân thủ điều trị, hoặc có rối loạn tâm thần.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

– Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng hồi cứu và tiến cứu, so sánh trước và sau điều trị. Các BN được chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm có 31 BN tương ứng nhau về các biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng.

Nhóm 1: Uống thuốc BDHNT, ngày 2 lần (cách nhau 12h) sau khi ăn 20 phút, mỗi lần 1 túi.

Nhóm 2: Uống thuốc Cebrex viên 40mg, ngày 3 lần (sáng, trưa, chiều), mỗi lần 2 viên.

– Ngoài ra, BN cả 2 nhóm đều được điều trị theo phác đồ chung (cân bằng nước, điện giải; thuốc dinh dưỡng bảo vệ tế bào não; chống kết tập tiểu cầu; phục hồi chức năng nhằm chống loét, teo cơ, biến dạng khớp; điều trị các bệnh lý kèm theo). Một đợt điều trị là 30 ngày.

– Đánh giá hiệu quả điều trị căn cứ vào mức độ phục hồi ý thức (điểm Glasgow), giảm độ liệt (điểm Henry), tình trạng lâm sàng (điểm Orgogozo) và khả năng sinh hoạt độc lập (điểm Barthel )

  1. BÀN LUẬN

4.1 Về mức độ phục hồi ý thức theo thang điểm Glasgow

– Trước và sau điều trị, không BN nào có rối loạn ý thức nặng. Ở nhóm uống BDHNT 9,7% có rối loạn ý thức vừa, sau ĐT chỉ còn 3,2%; 64,5% có rối loạn ý thức nhẹ, sau điều trị còn 16,1%; số BN không rối loạn ý thức tăng từ 25,8% lên 80,7%, thấp hơn nghiên cứu của Tô Hoàng Linh (97,2%), nhưng cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Phương Đông (71,43%). Tỷ lệ phục hồi ý thức sau đều trị tăng cao ở cả hai nhóm, sự khác biệt trước và sau điều trị với mỗi nhóm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) nhưng giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05 .

  1. Tác dụng cải thiện độ liệt theo thang điểm Henry

– Trước điều trị, nhóm uống BDHNT không có BN nào liệt ở độ I, sau điều trị, số BN ở mức độ này tăng lên 80,6% và cao hơn nghiên cứu của Tô Hoàng Linh (69,4%), Nguyễn Đức Vượng (33,33%); liệt độ II gặp ở 29%, sau điều trị giảm xuống còn 9,7%; liệt độ III, IV có 70,9%, sau điều trị đã giảm rõ rệt còn 3,2%. Cũng ở nhóm này, cải thiện được một độ liệt là 32,3% thấp hơn nghiên cứu của Tô Hoàng Linh (50%) và Nguyễn Đức Vượng (53,33%); cải thiện được hai hoặc ba độ liệt (58,1% và 9,7%) cao hơn của Tô Hoàng Linh (44,4% và 2,7%) và Nguyễn Đức Vượng (43,34% và 3,33%).

Như vậy, BDHNT có tác dụng tăng hồi phục sức cơ cho BN NMN, so với nhóm uống Cebrex sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) .

  1. Đánh giá tác dụng cải thiện khả năng tự phục vụ và tình trạng lâm sàng theo thang điểm Otgogozo và Barthel

– Phần lớn số BN sau NMN đến viện sớm hơn thì tình trạng lâm sàng cải thiện rõ rệt. Mức độ cải thiện còn tùy thuộc vào vị trí tổn thương, tuổi và sức khỏe của BN (tuổi trẻ thường hồi phục tốt hơn người cao tuổi).

– Nhóm BN uống BDHNT có điểm Orgogozo trước điều trị là 51,7 ± 10,5 điểm (p<0,001), tương đương với nghiên cứu của Nguyễn Đức Vượng (88,17%). Điểm Orgogozo của nhóm uống Cebrex trước điều trị là 53,9 ± 12,4, sau điều trị tăng lên 85,7 ± 8,8 điểm. Số điểm Orgogozo tăng ở nhóm uống BDHNT (33.4 ± 9,5 điểm) cao hơn so với nhóm thuốc Cebrex (31,8 ± 8,2 điểm) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) .

– BN ở nhóm uống BNHNT có điểm Barthel trước ĐT là 57,7 ± 12,0, sau điều trị tăng lên 88,6 ± 13,4 điểm. Nhóm BN uống Cebrex có điểm Barthel trước điều trị là 56,3 ± 9,1, sau điều trị tăng lên 86,8 ± 11,0 điểm (p< ,001). Số điểm Barthel tăng ở nhóm uống BDHNT (30,8 ± 11,3 điểm) cao hơn so với nhóm uống Cebrex (30,5 ± 8,8 điểm) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa (p> ,05). Như vậy, đánh giá theo thang điểm Barthel và Orgogozo thấy sau điều trị BN hồi phục tốt, sự khác biệt so với trước điều trị là có ý nghĩa (p < 0,001) và giữa 2 nhóm không có sự khác biệt (p > 0,05).

  1. Tác dụng điều trị NMN của bài thuốc BDHNT theo quan niệm y học cổ truyền

– Nguyên nhân, cơ chế gây nên trúng phong rất phức tạp nhưng không ngoài yếu tố là phong, hỏa, đàm, huyết, khí và hư. Trong 6 yếu tố đó thì huyết, khí, hư là căn bản của bệnh. Các yếu tố đó tác động tương hỗ lẫn nhau làm cho toàn phong nội động, khí huyết nghịch loạn, gây trúng phong.

– Theo y lý của YHCT, trúng phong do khí huyết, tạng phủ trong cơ thể hư nhược, gốc bệnh là hư, thuộc phần lý nên mạch trầm, do khí hư nên mạch nhược . Những đặc điểm này hợp chứng khí hư có kèm theo huyết ứ. Chính vì vậy, chúng tôi sử dụng bài BDHNT có tác dụng bổ khí sinh huyết, khí đẩy huyết hành, hoạt huyết hóa ứ để điều trị.

– Trong bài thuốc BDHNT, sinh hoàng kỳ được dùng liều cao (120g), có tác dụng đại bổ trung khí của tỳ vị, khiến khí vượng đẩy cho huyết hành, khứ ứ mà không hại đến chính khí, cùng giúp sức các vị thuốc khác, đây là quân dược. Phối hợp với Sinh hoàng kỳ có Quy vĩ tác dụng hoạt huyết, khứ ứ mà không phạm đến huyết, đó là thần dược; Xuyên khung, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa giúp Quy vĩ hoạt huyết khứ ứ, Địa long thông kinh hoạt lạc, đều là tá dược. Hợp với các vị khiến khí vượng huyết hành, ứ bị khử, lạc được thông, các chứng dần dần tự khỏi .

– Kết quả sau đợt điều trị 30 ngày bằng BDHNT, tỷ lệ BN khỏi (16,1%) và đỡ nhiều (67,7%) tương đương với nhóm BN điều trị bằng Cebrex (16,1% và 77,4%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Trong thời gian điều trị, các BN đều cảm thấy dễ chịu, ăn tốt hơn và ngủ dễ hơn; không có trường hợp nào bị nổi ban dị ứng; chỉ có 6,5% BN bị đau bụng nhẹ và đi ngoài phân lỏng nhưng do uống sữa, khi ngừng uống sữa thì tình trạng đi ngoài ổn định.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu tác dụng điều trị nhồi máu não sau giai đoạn cấp của bài thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang tại Viện Y học cổ truyền Quân đội, chúng tôi rút ra kết luận:

  • Mức độ phục hồi ý thức ở nhóm uống Bổ dương hoàn ngũ thang được cải thiện rõ rệt: trước điều trị có 9,7% bệnh nhân rối loạn ý thức vừa, 64,5% bệnh nhân rối loạn ý thức nhẹ, 25,8% không rối loạn ý thức, sau điều trị các tỷ lệ này lần lượt là 3,2%, 16,1% và 80,7%.
  • Mức độ liệt (thang điểm Henry) sau điều trị cải thiện được 2 độ là 58,1%, cải thiện được 1 độ là 32,3% và cải thiện được 3 độ là 9,7%. Khả năng sinh hoạt độc lập của BN (thể hiện qua điểm Barthel) sau điều trị tăng lên 30,8 ± 11,3 điểm; tình trạng lâm sàng (thang điểm Orgogozo) sau điều trị tăng lên 33,4 ± 9,5 điểm, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,001) so với trước điều trị.
  • Sau 30 ngày điều trị bằng Bổ dương hoàn ngũ thang, tỷ lệ bệnh nhân khỏi là 16,1%, đỡ nhiều 67,7% và đỡ ít là 16,1% (tương đương với điều trị bằng Cebrex)

Tài liệu tham khảo

  1. Nguyễn Văn Đăng (2008), Đại cương về tai biến mạch máu não, những kiến thức cơ bản trong thực hành, Tai biến mạch máu não hướng dẫn chẩn đoán và xử trí, Nxb Y học, Hà Nội, tr.19- 28.
  2. Thuỳ Dung (2008), “Tai biến mạch máu não không còn là nỗi lo”, Tạp chí Sức khoẻ người cao tuổi, chuyên đề Đông y, (số 13),tr. 32.

3. P hạm Gia Khải (2008), Tai biến mạch máu não và bệnh tim mạch, Tai biến mạch máu não hướng dẫn chẩn đoán và xử trí, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 294- 317.

  1. Tô Hoàng Linh (2006), Nghiên cứu tác dụng lâm sàng của thuốc Phục não trong điều trị nhồi máu não sau giai đoạn cấp, Luận văn Thạc sĩ Y học, Học viện Quân y, Hà Nội.

5. T rương Mậu Sơn (2006), Đánh giá  tác dụng phục hồi chức năng vận động do  nhồi máu não sau giai đoạn cấp bằng thuốc LIGUSTAN kết hợp với điện châm, Luận văn chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội.

  1. Meier Baumgartner H. P (1991), Rehabilitation of over 60 years old stroke patients, Ther. Umsch, pp. 48,  301- 306.
  2. WHO. (2006),“Key points: WHO traditional medicine strategy 2002- 2005”, Policy perspective on Medicine, Traditional medicine – growing needs and potential (No2 May), pp. 1- 77.

Phản biện khoa học: TS Phan Anh Tuấn

NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU VỀ CÂY ĐINH LĂNG: 

Công dụng:

Hoạt huyết dưỡng não, Thuốc bổ thần kinh, điều trị suy giảm thần kinh: rối loạn trí nhớ, đau đầu, mệt mỏi, căng thẳng, stress, mất ngủ, giúp minh mẫn, nâng cao trí nhớ.

  • Đinh lăng là dược liệu có tác dụng 5 tạng, tiêu thực, tiêu sưng viêm, giải độc, bổ huyết tăng sữa.
  • Đinh lăng là thuốc tăng lực. Nó làm tăng sức chịu đựng của cơ thể đối với các yếu tố bất lợi như kiệt sức, gia tốc, nóng. Đối với người, Đinh lăng làm cho nhịp tim sớm trở lại bình thường sau khi chạy dai sức và làm cho cơ thể chịu được nóng. Người bệnh bị suy mòn uống Đinh lăng chóng phục hồi cơ thể, ăn ngon, ngủ tốt, tăng cân.
  • Rễ đinh lăng được dùng làm thuốc bộ tăng lực, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu, mệt mỏi, tiêu hoá kém. Có nơi còn dùng chữa ho, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ và làm thuốc lợi tiểu, chống độc.
  • Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương (giã đắp). Thân và cành chữa thấp khớp, đau lưng. Có thể dùng rễ khô tán bột hoặc rẽ tươi ngâm rượu uống.
  • Cao Đinh lăng giúp vỏ não được hoạt hóa nhẹ và có tính đồng bộ, các chức năng của hệ thần kinh về tiếp nhận và tích hợp đều tốt hơn.

(Phần này ở trong các sách về Dược liệu và thuốc )

Nghiên cứu khoa học 

  1. Năm 1961, Theo nghiên cứu của Học viện y  học  Quân sự Việt Nam, dung dịch cao Đinh lăng có tác dụng: Tăng biên độ điện thế não, tăng tỉ lệ các sóng alpha, bêta và giảm tỉ lệ sóng delta (những biến đổi này diễn ra ở vỏ não mạnh hơn so với ở thể lưới); tăng khả năng tiếp nhận của các tế bào thần kinh vỏ não với các kích thích ánh sáng; tăng nhẹ quá trình hưng phấn khi thực hiện phản xạ trong mê lộ; tăng hoạt động phản xạ có điều kiện gồm phản xạ dương tính và phản xạ phân biệt.
  2. Ở Việt Nam, nghiên cứu cũng cho thấy bột rễ hay dịch chất rễ Đinh Lăng có khả năng làm tăng sức chịu đựng của cơ thể con người trong điều kiện nóng ẩm tốt hơn Vitamin C và chè giải nhiệt. Cao lá ethanol: Liều 100 mg/kg thể hiện tác dụng cải thiện trí nhớ trên thực nghiệm gây suy giảm trí nhớ bằng scopolamin được đánh giá bằng 2 thực nghiệm mê cung bơi và tránh né thụ động.  Nguyễn Thị Thu Hương, Trần Thị Mỹ Xuân (2011), Tác dụng cải thiện trí nhớ của cao chiết cồn từ lá Đinh lăng Polyscias fruticosa (L.) Harms, họ Araliaceae), Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 2006-2011, Viện Dược liệu, Nhà xuất bản Khoa Học và Kỹ Thuật, tr. 223-227.
  3. Cao ethanol phối hợp lá và rễ: Liều 100 mg/kg thể hiện tác dụng cải thiện trí nhớ trên thực nghiệm gây suy giảm trí nhớ bằng scopolamin trong thực nghiệm mê cung bơi.  Nguyễn Thị Thu Hương, Lương Kim Bích, Đoàn Thị Ngọc Hạnh (2005), “Nghiên cứu tác dụng của Sâm Việt Nam và Đinh lăng trên trí nhớ”, Tạp chí Dược liệu, 10 (6), tr. 196-200.
  4. Cao ethanol rễ:  Với liều tương đương 300 mg dược liệu/ kg có tác dụng cải thiện suy giảm trí nhớ dựa trên mô hình thiếu máu não cục bộ tạm thời bằng mô hình thắt tạm thời 2 động mạch cảnh chung .Phạm Thị Nguyệt Hằng, Nguyễn Minh Khởi (2017), “Tác dụng cải thiện trí nhớ trên mô hình gây thiếu máu não cục bộ tạm thời và bước đầu nghiên cứu cơ chế tác dụng của cao cồn rễ Đinh lăng”, Tạp chí Dược liệu, 22 (2), tr. 113-119.
  5. Cao ethanol phối hợp rễ và lá :  Ở khoảng liều < 180 mg/kg trên chuột nhắt trắng, cao Đinh lăng có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương, làm gia tăng vận động tự nhiên, rút ngắn thời gian ngủ của natri barbital. Khi ở liều cao hơn, cao Đinh lăng thể hiện tác dụng ức chế thần kinh trung ương, làm giảm vận động tự nhiên, kéo dài thời gian ngủ của natri barbital – Nguyễn Thượng Dong, Trần Công Luận, Nguyễn Thị Thu Hương (2007), Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ Nhân sâm, Nhà xuất bản Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, tr. 292-326.

III/ 5 ƯU ĐIỂM VƯỢT TRỘI SẢN PHẨM

  1. Công thức độc đáo & vượt trội: Kế thừa bài thuốc cổ phương “Bổ dương ngũ hoàng thang” với lịch sử hàng trăm năm chữa bệnh cứu người, được nghiên cứu bài bản và chuyên sâu cho hiệu quả vượt trội với
  2. Hiệu quả nhanh chóng:
  • Hiệu quả nhanh, mạnh, an toàn và đặc biệt công hiệu trong việc cứu người tai biến hôn mê, phục hồi sau tai biến
  • Giúp cải thiện nhanh chóng các triệu chứng của thiểu năng tuần hoàn não như đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, khó ngủ, suy giảm trí nhớ do thiếu máu lên não; Đau nhức, mỏi vai gáy do thiếu máu đến vai gáy; Đau mỏi, tê bì chân tay do thiếu máu đến các chi…
  1. Phục hồi nhanh và ngăn ngừa tai biến mạch máu não hiệu quả do tắc mạch bởi khả năng phá tan cục máu đông lên tới 100% sau 1 liệu trình sử dụng.
  2. Sản phẩm 100% tự nhiên: An toàn, không độc hại, dùng lâu dài không ảnh hưởng đến sức khoẻ
  3. Sản phẩm của Công ty Tuệ Linh có thương hiệu và danh tiếng: Giúp người bệnh an tâm về chất lượng và được cam kết hoàn tiền 100% nếu không hiệu qủa
  4. Đồng hành đến cùng với người bệnh: Đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm luôn sẵn sàng tư vấn và chăm sóc sức khỏe cho người bệnh

V/ LỢI ÍCH TĂNG THÊM

  • Bất kể anh/chị cần thông tin, vui lòng gọi đến tổng đài miễn cước 1800 1190, bên em sẽ giải đáp mọi thông tin về sản phẩm, về bệnh cho anh/chị.
  • Bên em có đội ngũ Bác sỹ, dược sỹ, GS hàng đầu, sẽ tư vấn, đồng hành cùng anh/chị trong suốt quá trình anh/chị sử dụng sản phẩm.
  • Anh/chị có cơ hội được tham quan du lịch tại vùng trồng dược liệu Tuệ Linh đạt tiêu chuẩn GACP của Tổ chức y tế thế giới.
  • Tặng các bộ sách uy tín của những chuyên gia hàng đầu ở các lĩnh vực Y học để hiểu hơn về sức khỏe, các phòng & điều trị bệnh hiệu quả.

 

  • Bình luận Facebook
  • Bình luận mặc định

Ý kiến của bạn

Ý kiến của bạn